Mặc dù game engine bản chất nó chỉ là một phần mềm tạo ra phần khung (framework) cho một tựa game, nhưng nếu không có nó thì sẽ không có Half-Life cho bạn bắn, Street Fighter cho bạn đấm, và FIFA cho bạn đá. Nói một cách đơn giản, đây là thứ đã giúp vô số nhà phát triển game hiện thực hóa ước mơ của họ, và của cả game thủ nữa.
Trong khuôn khổ bài viết này, mình sẽ giới thiệu đến các bạn top 9 game engine quan trọng nhất từ trước đến nay. Các bạn thử đếm xem mình biết được bao nhiêu engine nhé.
Unreal Engine
Vào năm 1995, Tim Sweeney bắt tay vào việc tạo ra một engine rồi dùng nó để sản xuất tựa game đối đầu với Quake và Doom, hai tựa game bắn súng FPS đình đám thời bấy giờ. Nhưng ông không ngờ rằng chính engine này đã thay đổi vận mệnh của cả công ty Epic Games.
Mặc dù tựa game Unreal cũng là một tuyệt tác để đời, nhưng chính engine làm ra nó mới tạo một cuộc cách mạng. Đến cuối thập niên 90 của thế kỷ 20, đã có gần 20 game sử dụng Unreal Engine. Và trong 2 thập kỷ sau đó, con số này đã tăng lên nhiều đến mức khó có thể nào mà đếm chính xác được. Vào năm 2014 thì Unreal Engine được Sách Kỷ lục Thế giới (Guinness World Records) ghi nhận là game engine thành công nhất thể giới với 408 tựa game sử dụng engine này.
Những tựa game nổi tiếng được tạo ra bằng Unreal Engine có thể kể đến là Deus Ex, BioShock, Borderlands, Street Fighter V, Star Wars Jedi: Fallen Order, và không thể không kể đến Fortnite – tựa game battle royale đang làm mưa làm gió trên thị trường hiện nay.
Source
Vào cuối giai đoạn phát triển Half-Life, Valve đã quyết định rời bỏ Quake engine để tự làm một engine khác của riêng mình.
Counter-Strike: Source là tựa game đầu tiên sử dụng engine này, nhưng phải đến Half-Life 2, với chất lượng đồ họa và hiệu ứng vật lý chân thực, thì Source engine mới thực sự “tỏa sáng”. Tuy nhiên, Valve vẫn là hãng game chính sử dụng engine này. Mặc dù đây không phải là phương tiện chính để kiếm tiền cho Gabe Newell (Gaben), nhưng nó vẫn tồn tại ở đó để ai cần thì cứ… lấy xài.
Những tựa game được Valve tạo ra với Source engine bao gồm Half-Life 2, Team Fortress 2, Portal 1 &2, Left 4 Dead 1 & 2, CS:GO. Ngoài ra còn có những tựa game khác sử dụng engine này như Black Mesa, Titanfall 1 & 2, và gần đây là tựa game battle royale nổi tiếng Apex Legends.
Unity
Đây là sự lựa chọn hàng đầu dành cho nhà phát triển indie với kinh phí hạn chế. Unity được GooBall giới thiệu vào năm 2005, nhưng phải đến 5 năm sau, khi tựa game Thomas Was Alone và hàng loạt game mobile đình đám ra đời, thì Unity mới thực sự được nhiều người quan tâm.
Đến khoảng độ 2015, Unity trở thành một trong những game engine phổ biến nhất trên thế giới. Unity được nhiều nhà phát triển tin dùng vì nó dễ xài, đa dụng, và nhất là có giá rất phải chăng, từ 0VNĐ.
Các tựa game sử dụng engine này gồm có Temple Run 1 & 2, The Room, Pokémon Go, Cuphead, Getting Over It with Bennett Foddy.
id Tech
Engine này mở màn với tựa game Doom vào năm 1993, và sau 6 lần nâng cấp thì engine này vẫn tiếp tục là phần “xương sống” của nhiều tựa game bắn súng FPS sau này.
Một thập kỷ trước thì id Tech không thực sự “hot” cho lắm. Nhưng phải đến khi công ty mẹ của id Software là ZeniMax độc quyền engine này, chỉ cho những studio trực thuộc công ty này sử dụng, thì nó mới thực sự “nở hoa” dưới bàn tay nhào nặn của MachineGames (dòng game Wolfenstein) và Tango Gameworks (The Evil Within).
Các tựa game sử dụng engine này bao gồm: Doom (1993), Quake (1996), Call of Duty (2003), Wolfenstein (2009), The Evil Within (2014), Wolfenstein II: The New Colossus (2017), Doom Eternal (2020).
CryEngine
CryEngine không phải là game engine “thân thiện” với nhà phát triển cho lắm, và cũng không phải là game engine được tối ưu tốt. Có lẽ vì vậy mà không mấy nhà phát triển “mặn mà” với engine này, mặc dù chất lượng đồ họa của nó là một điều khó có thể bàn cãi.
Nhưng những điều này không là nghĩa lý gì khi Crytek tung ra tựa game Far Cry vào năm 2004, định nghĩa lại thế nào “benchmark PC game”. Và đến năm 2007 thì họ làm thêm một cú y như vậy với tựa game Crysis. Thời hoàng kim của CryEngine đã qua, nhưng nó đã tạo ra một cơn chấn động mà đến bây giờ vẫn còn dư âm.
Có thể bạn chưa biết, nhưng dòng game Far Cry sau này được xây dựng dựa trên Dunia engine – một game engine được chỉnh sửa lại khá nhiều từ CryEngine.
Những game sử dụng engine này có thể kể đến Far Cry (2004), Crysis (2007), Crysis Warhead (2008), Crysis 2 (2011), Crysis 3 (2013), Warface (2013), Prey (2017).
Dark Engine
Thường thì thước đo mức độ xịn sò của một game engine nằm ở chất lượng đồ họa, nhưng Dark Engine lại nổi tiếng nhờ yếu tố khác (mặc dù đồ họa của nó cũng không phải dạng vừa đâu).
Thief: The Dark Project, Thief II: The Metal Age, và System Shock 2 là những tựa game đi đầu trong thể loại hành động lén lút (stealth) bởi vì kẻ địch trong game còn thông minh hơn cả học sinh lớp 5, và phần âm thanh cũng được hoàn thiện rất chỉn chu và tỉ mỉ, góp phần làm không khí trong game trở nên “căng hơn dây đàn” mỗi khi game thủ chuẩn bị một pha ám sát từ phía sau.
Những tựa game sử dụng Dark Engine gồm có Thief: The Dark Project (1998), Thief II: The Metal Age (2000), và System Shock 2 (1999).
Havok Physics/Destruction
Havok là game engine hơi khác một chút, bởi vì nếu chỉ sử dụng engine này thôi thì không thể nào hoàn thành được một tựa game. Thay vào đó, Havok chính xác hơn là một công cụ tạo ra những hiệu ứng đã tai đã mắt trong game như những pha nổ bom banh xác, viên đạn găm trúng sọ não, tòa nhà đang sập, và hàng tá hiệu ứng khác mà bạn thường thấy trong phim của Michael Bay. Nói một cách đơn giản thì nếu bạn thấy có hiệu ứng vật lý nào đó mà nhìn mãn nhãn thì khả năng cao đó là nhờ Havok.
Mặc dù có khởi đầu không mấy hoành-tá-tràng, nhưng dần dần đã có hơn 600 game sử dụng engine này, kinh điển là dòng game Just Cause với những hiệu ứng cháy nổ rất “Hollywood”. Các tựa game khác có thể kể đến bao gồm Rage 2 (2019), Wolfenstein: Youngblood (2019), Assassin’s Creed Origins (2018), Monster Hunter: World (2018), Destiny 2 (2017), Resident Evil 7: Biohazard (2017), Dark Souls III (2016).
Frostbite
Phải mất một thời gian thì Electronic Arts mới nhận ra được tầm quan trọng của game engine này. Được phát triển bởi DICE và trình làng lần đầu tiên vào năm 2008 trong tựa game Battlefield: Bad Company, Frostbite nhanh chóng được “nhân rộng” và áp dụng vào các dòng game khác như FIFA, Need for Speed, với đỉnh cao là hai tựa game nhập vai đình đám của BioWare là Mass Effect: Andromeda và Anthem.
Đã có nhiều studio cùng nhau cải thiên engine này, khiến nó càng trở nên đa dụng, hiệu quả, và… dễ xài hơn. Những tựa game sử dụng Frostbite gồm có Anthem (2019), Mass Effect: Andromeda (2017), Dragon Age: Inquisition (2014), và các phiên bản FIFA, Battlefield, Need for Speed trong những năm gần đây.
Infinity Engine
Đây là game engine đứng sau những tựa game huyền thoại là Baldur’s Gate và Icewind Dale. Infinity Engine đã đặt nền móng cho thể loại Classical Role-Playing Game (nhập vai “cổ điển”) và đã tạo ra một thời kì hoàng kim cho game thủ PC. Rất ít game engine nào có thể tạo ra sức ảnh hưởng lớn đến cả một thế hệ game thủ như Infinity Engine.
Mặc dù engine này đã “có tuổi”, nhưng mới hồi 2016 nó đã được tái sử dụng trong game Baldur’s Gate: Siege of Dragonspear sau 14 năm vắng bóng. Đúng là gừng càng giá càng cay!
Các tựa game được tạo ra bởi engine này bao gồm dòng game Baldur’s Gate, Icewind Dale, và Planescape: Torment.
Nguồn: PCGamesN, biên tập Gearvn